Dư luận xã hội (DLXH) và truyền thông đại chúng (TTĐC) có mối liên hệ chặt chẽ và tác động qua lại lẫn nhau. Trong bài viết này, tôi sẽ phân tích những ảnh hưởng của DLXH đến hoạt động TTĐC dưới các góc độ sau:
- Ảnh hưởng đến nội dung và định hướng của TTĐC
- Tác động đến độ tin cậy và uy tín của TTĐC
- Ảnh hưởng đến quyền tự do báo chí và kiểm duyệt
- Vai trò của DLXH trong việc định hướng chính sách và quy định về TTĐC
- Tác động của DLXH lên trách nhiệm xã hội của TTĐC
- Ảnh hưởng đến nội dung và định hướng của TTĐC
Theo định nghĩa, DLXH là sự phán xét đánh giá của công chúng đối với các sự kiện, hiện tượng, quá trình xã hội mà họ quan tâm do chúng có liên quan đến nhu cầu, lợi ích của họ. (Lương Khắc Hiếu, 2014). Các cơ quan truyền thông buộc phải đưa tin, bình luận về những sự kiện, vấn đề nóng hổi đang được dư luận quan tâm theo hướng phù hợp với tâm lý, quan điểm của công chúng.
Ví dụ, nếu có một sự cố môi trường lớn khiến dư luận phản ứng gay gắt, các cơ quan truyền thông sẽ phải tập trung đưa tin kịp thời, cung cấp thông tin minh bạch về sự cố này cho công chúng. Họ sẽ định hướng theo chiều hướng phê phán, chỉ trích nếu dư luận đa số cho rằng sự cố đó là do sự chủ quan, thiếu trách nhiệm của các bên liên quan.
DLXH thể hiện nhu cầu, mối quan tâm của công chúng, do đó nó quyết định khá nhiều về nội dung và cách thức trình bày thông tin trên các phương tiện truyền thông. Các nhà báo, biên tập viên phải nắm bắt được không khí DLXH để điều chỉnh nội dung, ngôn ngữ truyền thông cho phù hợp với tâm lý quần chúng.
Tác động đến độ tin cậy và uy tín của TTĐC
DLXH cũng ảnh hưởng rất lớn đến mức độ tin cậy và uy tín của TTĐC. Nếu cơ quan truyền thông nào đưa thông tin sai lệch, thiếu trung thực, không phản ánh được nguyện vọng của quần chúng thì rất dễ bị tổn thất lòng tin và bị chỉ trích bởi DLXH.
Ngược lại, các cơ quan truyền thông có khả năng dẫn dắt, định hướng DLXH theo chiều hướng lành mạnh, đưa ra các quan điểm cân bằng, khách quan sẽ được DLXH đồng tình, đánh giá cao và ngày càng có uy tín trong xã hội.
Một ví dụ là trong đại dịch Covid-19 vừa qua, những cơ quan truyền thông nào đưa tin chính xác, cập nhật kịp thời tình hình dịch bệnh, phổ biến đầy đủ các khuyến cáo của chính phủ và các chuyên gia y tế đã nhận được sự ủng hộ, đánh giá cao từ dư luận. Còn các cơ quan lan truyền thông tin sai lệch, câu khách hoặc quá bi quan đã bị dư luận chỉ trích, đánh giá thấp về tính chuyên nghiệp.
Ảnh hưởng đến quyền tự do báo chí và kiểm duyệt
DLXH cũng đóng vai trò quan trọng trong việc định hình các chính sách về quyền tự do báo chí, xu hướng kiểm duyệt hay kiểm soát thông tin trên TTĐC tại mỗi quốc gia.
Ở các quốc gia dân chủ, DLXH ủng hộ tự do báo chí, phê phán và đấu tranh chống lại các biện pháp kiểm duyệt, kiểm soát quá mức đối với TTĐC vì xem đó là một quyền tự do dân chủ cơ bản. Ngược lại tại các quốc gia chuyên chế, độc tài, việc kiểm soát chặt chẽ TTĐC để ngăn chặn những luồng ý kiến đối lập, phê phán lại nhận được sự ủng hộ của DLXH đồng thuận với nhà cầm quyền.
Ở Việt Nam hiện nay, dư luận đa số ủng hộ định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng và Nhà nước ta nhưng vẫn kêu gọi TTĐC cần có nhiều tự do hơn để phản ánh đúng hơn tiếng nói của nhân dân, đấu tranh chống tham nhũng và các tiêu cực trong xã hội. Chính vì thế, mặc dù việc kiểm soát vẫn tồn tại, Nhà nước đã phải linh hoạt, cởi mở hơn về quyền tự do báo chí để đáp ứng DLXH này.
Qua các thời kỳ lịch sử, DLXH thường đóng vai trò quan trọng thúc đẩy hoặc ngăn cản xu thế mở rộng hoặc hạn chế quyền tự do báo chí tại các quốc gia.
Vai trò của DLXH trong việc định hướng chính sách và quy định về TTĐC
Ngoài vấn đề tự do báo chí, DLXH cũng có ảnh hưởng lớn đến việc ban hành và sửa đổi các chính sách, quy định khác về hoạt động của TTĐC tại một quốc gia.
Các chính sách về quảng cáo, kiểm soát nội dung, bảo vệ quyền riêng tư, quy định về đạo đức nghề nghiệp trong truyền thông... đều chịu tác động lớn từ DLXH.
Ví dụ, nếu có nhiều phàn nàn từ DLXH về việc phim ảnh, truyền hình có quá nhiều cảnh bạo lực, khiêu dâm thì chính quyền sẽ phải siết chặt các quy định kiểm duyệt nội dung nhằm hạn chế những nội dung đó. Hay khi người dân bức xúc về việc bị lộ thông tin cá nhân trên mạng xã hội, quyền riêng tư bị xâm phạm, DLXH sẽ đòi hỏi phải có các quy định mới về bảo vệ dữ liệu, quyền riêng tư cá nhân trên TTĐC.
Tại Mỹ, phong trào đấu tranh của DLXH chống lại những hình ảnh khỏa thân, tình dục đồi trụy trên truyền hình đã dẫn đến việc ban hành Đạo luật Quy tắc Khiêm nhã năm 2005 nhằm kiểm soát chặt chẽ hơn các nội dung phản cảm trên sóng truyền hình. Hay tại Anh, sau các vụ bê bối về việc bẻ khóa điện thoại để nghe lén của các nhà báo, dư luận đã kêu gọi cần có đạo luật mới để bảo vệ quyền riêng tư và đạo đức nghề nghiệp báo chí.
Như vậy, DLXH đóng vai trò quan trọng trong việc phản ánh tâm tư, nguyện vọng của công chúng, thúc đẩy việc sửa đổi, bổ sung các chính sách, quy định nhằm điều chỉnh, quản lý hoạt động của TTĐC theo hướng phù hợp với xã hội hơn.
Tác động của DLXH lên trách nhiệm xã hội của TTĐC
DLXH không chỉ tác động đến các chính sách, quy định bên ngoài mà còn gây áp lực để TTĐC phải tự điều chỉnh, nâng cao trách nhiệm xã hội của mình trong quá trình hoạt động.
Trước đòi hỏi ngày càng cao của DLXH về tính chuyên nghiệp, trung thực và đạo đức nghề nghiệp, các cơ quan truyền thông buộc phải tự điều chỉnh để tiếp tục giữ được uy tín và được lòng dân. Họ phải cẩn trọng hơn về nguồn tin, việc kiểm chứng thông tin, tuân thủ đạo đức nghề nghiệp, công bằng và khách quan hơn khi đưa tin.
Các hãng truyền thông lớn đã phải xây dựng bộ quy tắc đạo đức nghiệp vụ nghiêm ngặt, thành lập các ủy ban giám sát độc lập để đảm bảo trách nhiệm xã hội và khắc phục những khuyết điểm trước áp lực của DLXH.
Tại Việt Nam, trước dư luận phê phán việc đưa tin thiếu chính xác, nặng về khai thác trần tục để câu giật chuông về số người xem, nhiều cơ quan báo chí cũng đã phải ra quy định nội bộ về đạo đức nghề nghiệp, yêu cầu phóng viên nâng cao ý thức trách nhiệm với công chúng.
Tóm lại, DLXH có vai trò rất quan trọng trong việc giám sát, thúc đẩy các cơ quan truyền thông hoạt động có trách nhiệm hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của công chúng.
Qua các phân tích trên, có thể thấy DLXH tác động mạnh mẽ lên nhiều lĩnh vực trong hoạt động của TTĐC từ nội dung, hình thức, chính sách quy định đến yêu cầu đạo đức và trách nhiệm xã hội. Đây là mối quan hệ qua lại có tính tất yếu trong bối cảnh ngày nay khi dân chủ hóa, tự do ngôn luận được đề cao. TTĐC cần lắng nghe và tôn trọng tiếng nói của DLXH, trong khi DLXH cũng không nên can thiệp quá mức vào hoạt động của TTĐC để đảm bảo tính khách quan, chuyên nghiệp. Sự cân bằng giữa hai yếu tố này sẽ tạo điều kiện để TTĐC phát triển lành mạnh, đóng vai trò tích cực trong việc phản ánh ý chí, nguyện vọng của nhân dân, thúc đẩy sự ổn định và phát triển của xã hội.
Tài liệu tham khảo
- Lương Khắc Hiếu (2014), "Nghiên cứu và định hướng dư luận xã hội", Nxb Lý luận chính trị.
- Trần Xuân Cầu (2018), "Dư luận xã hội với truyền thông đại chúng", Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam, số 3.
- Nguyễn Thị Thanh Hương (2021), "Tác động của dư luận xã hội tới hoạt động truyền thông", Tạp chí Khoa học, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
- Nghiên cứu của Dun P. Hai, Đại học Clemson về "Dư luận xã hội và hoạt động kiểm duyệt truyền thông ở Trung Quốc" năm 2019.
- Báo cáo của Liên minh Báo chí Quốc tế (IFJ) về "Tự do báo chí và dư luận xã hội trong thời đại số" năm 2022.
- Bùi Hải Thiệm (2018), "Dư luận xã hội trong bối cảnh truyền thông mới hiện nay", Nxb Khoa học Xã hội.
- Tài liệu của UNESCO về "Dư luận, truyền thông và phát triển" năm 2016.
- Phillips, Angela (2015), "Journalism in Context: Practice and Theory for the Digital Age", Routledge.
- McQuail, Denis (2010), "McQuail's Mass Communication Theory", 6th edition, Sage Publications.